Trang chủ
Video
Chế ảnh

Duy Anh VDSC

3 tháng trước

Điện gió ngoài khơi: Động lực phát triển mới cho các nhà thầu xây lắp tại Việt Nam

Điện gió ngoài khơi: Động lực phát triển mới cho các nhà thầu xây lắp tại Việt Nam
Chế ảnh này
Năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, đang trở thành xu thế tất yếu của ngành năng lượng toàn cầu. Hiện nay, hàng loạt dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn đang được triển khai mạnh mẽ ở nhiều khu vực trọng điểm như Châu Âu, Châu Á – Thái Bình Dương và Mỹ. Trong đó, Châu Âu là khu vực tiên phong với các dự án nổi bật như Hornsea 2 và Dogger Bank (Anh), Borssele 1&2 (Hà Lan). Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng chứng kiến sự bứt phá mạnh mẽ khi Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan dẫn đầu với những dự án tầm cỡ như Greater Changhua (Đài Loan) hay Ulsan (Hàn Quốc). Bên kia bờ Đại Tây Dương, Mỹ cũng đang tăng tốc với các dự án nổi bật như Vineyard Wind và South Fork Wind. Theo báo cáo tháng 6/2024 của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC), khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được dự báo sẽ dẫn đầu ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi toàn cầu với công suất đạt khoảng 172 GW vào năm 2030, chiếm 57,6% tổng công suất toàn cầu. Châu Âu dự kiến đạt hơn 111 GW (37,2%) và Bắc Mỹ đạt 15,2 GW. Tốc độ tăng trưởng kép của ba khu vực lần lượt là 21,2%, 19,7% và 58%. Đặc thù thi công các dự án điện gió ngoài khơi có nhiều điểm tương đồng với các dự án cơ khí dầu khí, bao gồm khảo sát địa chất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lắp đặt thiết bị và vận hành. Theo GWEC, thời gian thực hiện một dự án điện gió ngoài khơi từ giai đoạn khảo sát đến khi đi vào vận hành thương mại kéo dài từ 6 đến 8 năm. Quá trình này gồm khảo sát sức gió trong 1-2 năm, thiết kế chi tiết và đấu thầu trong 1-2 năm, cuối cùng là xây dựng và lắp đặt kéo dài từ 2-4 năm. Khi đi vào vận hành, các tuabin gió ngoài khơi có tuổi thọ từ 20 đến 30 năm, nhưng cần được bảo trì định kỳ, thay thế các bộ phận quan trọng như hộp số và cánh quạt nhằm đảm bảo hiệu suất và an toàn vận hành. Một dự án điện gió ngoài khơi bao gồm các thành phần chính là tuabin gió, cột trụ và móng, hệ thống cáp ngầm và trạm biến áp ngoài khơi. Tổng mức đầu tư cho mỗi dự án dao động từ 2-5 tỷ USD tùy theo quy mô và vị trí, cao hơn đáng kể so với các dự án dầu khí truyền thống do yêu cầu kỹ thuật và công nghệ phức tạp hơn. Tuy nhiên, về bản chất, công trình dầu khí và điện gió ngoài khơi đều là các kết cấu thép được chế tạo hoàn thiện trên bờ rồi đưa ra lắp đặt ngoài khơi. Vì vậy, các hạng mục thiết kế, mua sắm, chế tạo và thi công đều phải đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn cao tương tự nhau. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), kinh nghiệm của ngành dầu khí có thể đóng góp đến 40-45% chi phí vòng đời của một dự án điện gió ngoài khơi. Ở Việt Nam, phần lớn các cấu phần của điện gió ngoài khơi đều có thể tận dụng công nghệ từ ngành dầu khí, ngoại trừ tuabin gió và cáp điện ngầm hiện vẫn bị chi phối bởi một số công ty nước ngoài độc quyền về công nghệ. Về phần tuabin gió, cũng như các giàn khoan dầu khí, dự án điện gió ngoài khơi cần xây dựng phần chân đế cho tuabin và trạm biến áp trên biển, đồng thời thực hiện rải và lắp đặt hệ thống cáp ngầm kết nối. Các chân đế tuabin gió hiện nay có khối lượng từ 0,8 đến 1,2 nghìn tấn, nhỏ hơn nhiều so với móng của giàn khai thác dầu khí. Với năng lực thi công chân đế giàn khoan từ 15.000 đến 20.000 tấn, PVN hoàn toàn có đủ năng lực đảm nhiệm hạng mục chế tạo chân đế cho các dự án điện gió ngoài khơi trong tương lai. Đối với cáp điện ngầm, so với công trình dầu khí, khối lượng và kích thước của cáp điện gió ngoài khơi tương đương, thậm chí còn dễ thi công hơn so với công tác rải ống ngầm dầu khí cả về quy mô lẫn độ phức tạp. Hiện nay, làn sóng các nhà thầu cơ khí dầu khí chuyển hướng sang lĩnh vực điện gió ngoài khơi đang diễn ra mạnh mẽ nhằm tận dụng kinh nghiệm và thế mạnh thi công ngoài khơi. Trên thế giới, các nhà thầu uy tín như Ørsted, Vestas (Đan Mạch), Siemens Gamesa (Đức) và General Electric (Mỹ) đã tham gia hàng loạt dự án điện gió ngoài khơi lớn. Tại Châu Á - Thái Bình Dương, các đơn vị như Ørsted, SK Ocean Plant (Hàn Quốc) và Sing Da Marine Structure (Đài Loan) đang dẫn đầu thị trường, với công suất thi công bình quân mỗi năm lần lượt đạt 2,5 GW, 1,5 GW và 1 GW. Tổng năng lực thi công của các doanh nghiệp này hiện chưa vượt quá 6 GW mỗi năm, trong khi nhu cầu tăng thêm công suất điện gió ngoài khơi bình quân giai đoạn 2025-2033 cũng vào khoảng 6 GW/năm. Điều này cho thấy mức độ cạnh tranh giữa các đơn vị thi công điện gió ngoài khơi tại khu vực còn hạn chế, tạo ra dư địa lớn cho những đơn vị mới tham gia, đặc biệt là PVS. Dù #PVS chưa từng đảm nhận trọn gói một dự án điện gió ngoài khơi, nhưng đã tích lũy kinh nghiệm khi tham gia một số hạng mục như chế tạo trạm biến áp và chân đế. Chúng tôi kỳ vọng #PVS có thể học hỏi và hoàn thiện năng lực thông qua mô hình liên doanh với các đối tác quốc tế, sau đó sẽ tự đứng vững để trở thành tổng thầu độc lập trong tương lai. PVS hiện sở hữu nhiều lợi thế lớn để bứt phá trong lĩnh vực này. Đầu tiên là sở hữu căn cứ cảng chế tạo Hạ Lưu Vũng Tàu với diện tích lên tới 200 ha - lớn nhất khu vực. Bên cạnh đó, PVS có bề dày kinh nghiệm thi công hàng loạt công trình cơ khí dầu khí ngoài khơi, với đặc thù kỹ thuật tương đồng với điện gió ngoài khơi. Quan trọng hơn, năng lực thực tế của PVS đã được kiểm chứng qua các dự án điện gió ngoài khơi quốc tế như Formosa, Greater Changhua 2b & 4 và Fengmiao tại Đài Loan. Tại Việt Nam, một bước tiến quan trọng là dự án xuất khẩu điện gió sang Singapore, được khởi động từ đầu năm 2023 khi PVS ký thỏa thuận phát triển chung với Sembcorp Utilities (SCU) - tập đoàn năng lượng quốc doanh của Singapore với bề dày kinh nghiệm triển khai các dự án điện gió ngoài khơi tổng công suất lên tới 7,5 GW toàn cầu. Dự án này được kỳ vọng sẽ là biểu tượng cho mối quan hệ “Đối tác kinh tế số, kinh tế xanh” giữa hai quốc gia. Việc phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam đang gặp nhiều thách thức về vốn, khi suất đầu tư lên tới 3 tỷ USD cho mỗi 1 GW công suất. Trong khi đó, giá bán điện tại thị trường nội địa chỉ vào khoảng 7,5 US cent/kWh, khiến bài toán tài chính không dễ dàng. Vì vậy, chiến lược xuất khẩu điện gió sang Singapore với giá bán cao hơn từ 25-33 US cent/kWh là hướng đi rất tiềm năng. Hiện tại, PVS đã trúng thầu gói khảo sát gió, thủy văn và địa chất cho dự án này. Dự kiến, sau giai đoạn khảo sát, dự án sẽ triển khai xây dựng trang trại điện gió ngoài khơi với công suất ban đầu khoảng 2,3 GW. Điện năng sản xuất sẽ được xuất khẩu trực tiếp sang Singapore qua tuyến cáp ngầm cao thế dưới biển. Giá trị gói thầu thi công M&C của PVS giai đoạn 2025-2028 được ước tính khoảng 1,2 tỷ USD. Dự án dự kiến đưa vào vận hành thương mại vào năm 2030, đóng góp vào mục tiêu nhập khẩu 4 GW điện tái tạo của Singapore trước năm 2035. Chúng tôi kỳ vọng dự án này sẽ mang lại nguồn thu lớn cho PVS từ sau năm 2030. Tại thị trường trong nước, Việt Nam đặt mục tiêu đạt công suất điện gió ngoài khơi 6 GW vào năm 2030 và 15 GW vào năm 2035. Với nền tảng hiện có, PVS đang đứng trước cơ hội lớn để trở thành nhà thầu xây lắp chủ lực trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi tại Việt Nam và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời gian tới. 🔹Anh/Chị cần hỗ trợ chi tiết về danh mục và lựa chọn cổ phiếu? Hãy liên hệ với em ngay để được hỗ trợ tốt nhất (thông tin liên hệ trong trang Bio).
PVS
reaction

201 lượt thích

0 bình luận

© 2021 Công ty Cổ phần Công nghệ Tài chính Encapital
Địa chỉ: 46 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội - MST: 0108400691
Số điện thoại: 02471059988 - Email: team@bovagau.vn
Chịu trách nhiệm nội dung: Nguyễn Quang Sơn.
Giấy phép thiết lập MXH số 417/GP-BTTTT, ký ngày 05/07/2021.